Cụ Tư mất đã hơn một năm, để lại mảnh đất hơn 3.000 mét vuông nằm ngay mặt tiền quốc lộ – hiện được giới đầu tư định giá hơn 60 tỷ đồng. Nhưng điều khiến người trong vùng bàn tán không phải là giá trị đất, mà là chuyện sáu người em về quê đòi chia thừa kế, rồi lại ra về tay trắng.
Cụ Tư sinh được bảy người con: sáu trai một gái. Người con cả – anh Hai Hòa – là người duy nhất không rời quê. Từ năm 18 tuổi, sau khi học hết lớp 9, anh ở lại phụ cha làm vườn, canh tác, dựng nhà, chăm mẹ già, rồi nối nghiệp. Trong khi đó, sáu người em – mỗi người có một giấc mộng riêng – kẻ vào Sài Gòn, người ra Hà Nội, có người xuất ngoại.
Ba Nhân làm công chức ở TP.HCM, suốt đời cần mẫn nhưng lương ba cọc ba đồng, về hưu mới đủ ăn.
Tư Tín làm thầy giáo ở Long An, sống thanh bạch.
Năm Lực đi lao động xuất khẩu ở Nhật, rồi định cư luôn ở đó, hiếm khi về nước.
Sáu Thắm lấy chồng ở Đồng Nai, buôn bán nhỏ.
Bảy Lợi từng làm kỹ sư, rồi thất bại với vài dự án, giờ sống nhờ trợ cấp vợ.
Tám Trang là con gái út, theo chồng làm ăn ở Đà Nẵng, ít liên hệ với gia đình từ khi mẹ mất.
Chỉ có anh Hai Hòa là chưa bao giờ rời khỏi mảnh đất đó. Mọi mùa vụ, mọi đám giỗ, tang lễ, thậm chí những lúc cụ Tư bệnh nằm liệt giường gần hai năm trời – một tay anh lo liệu. Lúc cụ Tư mất, sổ đỏ cũng đứng tên anh.
Một buổi chiều đầu tháng Tư, luật sư Nguyễn – người được cụ Tư mời lập di chúc trước khi mất – gọi điện cho sáu người con còn lại, mời về quê họp gia đình.
“Chuyện quan trọng lắm. Mảnh đất đó sắp có người trả giá rất cao. Theo di chúc, tôi có trách nhiệm thông báo rõ ràng cho các anh chị.” – giọng luật sư trầm nhưng nghiêm.
Tin tức ấy khiến ai nấy đều xôn xao. Người mừng, kẻ hồi hộp, tất cả cùng về quê sau nhiều năm vắng bóng.
Căn nhà ba gian hôm đó đầy đủ cả bảy người con, kể cả Tám Trang lâu nay ít về. Ai cũng đoán luật sư sẽ công bố chia đều, hoặc ít ra cũng chia phần.
Luật sư Nguyễn mở tập hồ sơ, đặt nhẹ xuống bàn trà, chậm rãi:
“Trước khi mất, cụ Tư có để lại di chúc, công chứng tại văn phòng tôi. Trong đó ghi rõ: ‘Toàn bộ mảnh đất cha ông để lại, tôi giao cho con cả – Hòa – toàn quyền sở hữu và quyết định. Các con khác, tôi yêu thương như nhau, nhưng không ai từng đóng góp công sức gì vào việc gìn giữ, canh tác, chăm sóc tôi lúc ốm đau hay xây dựng mảnh đất này suốt 40 năm qua. Tôi đã chu cấp, cho vốn và giúp đỡ mỗi đứa khởi đầu cuộc sống riêng. Giờ tôi thanh thản giao đất lại cho người đã gắn bó cả đời với nó.’”
Không gian im lặng trong vài giây. Rồi Bảy Lợi bỗng bật dậy:
“Cái gì mà ‘giao toàn bộ cho anh Hai’? Sao không chia đều như luật?”
Tư Tín khẽ đập bàn:
“Luật là luật. Di chúc trái luật thì cũng không có giá trị!”
Luật sư Nguyễn gật đầu, như đoán trước phản ứng này:
“Nếu không đồng thuận, các anh chị có quyền khởi kiện để chia di sản theo pháp luật. Nhưng cần lưu ý: phần lớn diện tích đất này được cấp sổ đỏ riêng đứng tên anh Hai Hòa từ năm 2005 – theo biên bản chuyển nhượng nội bộ giữa cụ Tư và anh Hòa. Khi ấy các anh chị đều đã rời quê, có ký xác nhận từ chối quyền sử dụng đất để cha làm sổ cho con cả.”
Đột nhiên, Sáu Thắm – người hiền lành nhất nhà – lên tiếng:
“Em nhớ rồi… Năm đó cha gọi về họp, kêu ai muốn đất thì ở lại làm vườn, còn không thì ký giấy nhường lại cho anh Hai. Khi đó ai cũng lo sự nghiệp riêng, nên đâu có ai phản đối.”
Anh Hai Hòa vẫn ngồi lặng lẽ, không nói gì từ đầu buổi.
Tư Tín lại cãi:
“Nhưng giờ đất đó 60 tỷ! Một mình anh Hai ôm hết sao được?”
Lúc đó, anh Hai mới từ tốn nói:
“Lúc tụi bây đi, để lại cha mẹ cho tao lo. Một mình tao gánh vác, lo thuốc thang, bệnh viện, mua đất xây mộ. Vườn nhãn, mấy công ruộng đều do tao cày cấy. Tao đâu hề trách móc gì ai, nhưng cũng không có lý do gì để chia đều mảnh đất mà tụi bây không hề bỏ ra giọt mồ hôi nào cả.”
Luật sư Nguyễn im lặng để không khí lắng xuống. Ông biết những câu chuyện thừa kế không chỉ là tiền bạc – mà là lịch sử gia đình, là công lao, và cả những vết nứt tình thân khó lành lại.
Anh Hai Hòa dẫn các em ra sau vườn. Mảnh vườn trĩu quả, hàng cây thẳng tắp, góc bếp còn mấy cái ghế đá cụ Tư từng ngồi mỗi sáng sớm, một chiếc võng cũ vẫn còn đó.
“Tao không cần tụi bây thương tao hay biết ơn. Nhưng nếu hôm nay tụi bây đến đây chỉ để tính chia tiền – thì tao xin lỗi. Ở đây không có tiền, chỉ có đất. Mà đất này là đời cha tao, rồi đời tao, chứ không phải cái gì bỗng nhiên chia được.”
Chiều hôm đó, sáu người em lục tục kéo vali, ra về.
Tư Tín là người đầu tiên vẫy tay chào, nhưng không giấu vẻ thất vọng. Ba Nhân thở dài. Sáu Thắm nhìn anh Hai một lúc lâu rồi mới quay đi.
Chỉ có Tám Trang, khi xe chuẩn bị nổ máy, quay lại hỏi:
“Anh Hai… nếu em không đòi đất, em về đây phụ anh làm vườn được không?”
Anh Hai cười, nụ cười hiếm hoi suốt mấy ngày nay:
“Về thì về, nhưng làm thiệt đó nghe!”
Mảnh đất vẫn đó, nhưng giờ ngoài anh Hai Hòa còn có Tám Trang và con trai chị – một cậu sinh viên IT bỏ thành phố về quê mở mô hình nông nghiệp công nghệ cao.
Ba Nhân lâu lâu gửi ít tiền hỗ trợ anh Hai sửa lại nhà tổ. Sáu Thắm và Năm Lực dịp Tết đều về, mang theo quà và… không còn nhắc chuyện thừa kế nữa.
Còn Bảy Lợi, dù không nói ra, nhưng nghe đâu đang nhờ luật sư khác khởi kiện. Dù vậy, vụ việc rơi vào bế tắc – vì các giấy tờ cũ đã rõ ràng.
Không ai biết mảnh đất đó cuối cùng có bán không. Nhưng người ta nhớ mãi chuyện sáu người em về quê đòi chia đất, rồi lại ra về tay trắng.
Tay trắng… nhưng có lẽ không hoàn toàn trắng tay. Vì trong chuyến đi ấy, có người đã tìm lại được góc quê, căn nhà, người anh từng bị lãng quên, và những ký ức sâu đậm hơn cả giá trị vật chất.